Tôi ít khi đăng bài viết của ai trên trang blog mình, nhưng hôm nay là một ngoại lệ. Thực sự bài viết đã cho tôi nhiều cảm xúc! Cảm ơn bạn - Hoàng A Sáng!!!
A SÁNG ngơ ngác vầng trăng nơi phố xá
Bây giờ sống ở thành phố, tìm kiếm một đêm trăng thật khó. Thứ ánh sáng huyền diệu của thiên nhiên ấy không lọt nổi vào thành phố. Những cột đèn cao áp vô duyên, những cây xà cừ xấu xí đã nuốt hết ánh trăng của tôi. Đêm nào cũng thế, mỗi khi tàn cuộc cà phê, tôi lại về nhà ngồi làm việc thật khuya. Tôi phải làm việc về khuya để giải toả những lo toan của ngày mai. Tôi phải hoàn thành bài viết, tôi phải hoàn thành bức vẽ, tôi phải hoàn thành tập bản thảo đang đọc dở… đó là những công việc tôi phải làm vào đêm khuya. Những lúc quá mệt mỏi, tôi thèm khát một ánh trăng, chỉ một tia sáng nhỏ nhoi mát dịu thôi! Không bao giờ tôi thấy! ...
Chúng tôi thường bàn tới nghệ thuật, có những lúc tranh cãi đến căng thẳng. Thời gian này với tôi là thư giãn nhất, thú vị nhất trong một ngày vì tôi thường ngồi im quan sát. Đường phố vẫn đông như vậy, vẫn xe cộ, vẫn những bước chân vội vã - họ vẫn miệt mài kiếm sống. Hình như người ở phố không lúc nào nghỉ, bất kể lúc nào có thể kiếm ra tiền là họ làm.
Ngay đối diện quán “Cà phê Paris” của chúng tôi có một đôi vợ chồng già bán nước. Sở dĩ tôi để ý đến họ vì cứ lúc nào chúng tôi ra uống cà phê là hai ông bà lại khệ nệ bê bàn ghế ra bán nước. Bà cụ bán nước, ông chồng kiêm thêm bằng việc bơm xe. Không hiểu ban ngày họ làm gì, nhưng tối nào cũng thế, rất đều đặn, cứ 8h là họ có mặt. Có hôm thấy họ đông khách, cũng có lúc vắng như chùa bà đanh, nhưng với cái đèn dầu leo lắt, bà cụ luôn ngồi im như một pho tượng nhẫn nại chờ khách hàng.
Những lúc như thế trông ông bà rất tội nghiệp, ở tuổi này nên nghỉ ngơi vui vầy với con cháu. Hay họ không con cái? Từ sự tò mò đó, có lần tôi đã mon men bắt chuyện ông bà và thật ngạc nhiên vì không phải thế. Ông bà rất đông con cháu, chúng nó thành đạt cả, kinh tế ông bà cũng không đến nỗi nào vì họ đều có lương hưu. Nhưng tại sao hai ông bà vẫn đi bán nước ban đêm? Đơn giản vì ông bà thấy buồn khi ở nhà, đi bán nước để giết thời gian, tiền bạc không thành vấn đề.
Đúng là người ở phố thật đa dạng, người ta sợ sự giam cầm hay đó là thói quen muốn nhìn thấy nhiều người? Tôi không lý giải nổi, nhưng nếu là tôi thì ở cái tuổi này tội gì ngồi gật gù bên hè phố bụi bặm, để những đứa oắt con hất hàm bắt rót nước. Hay ông bà nói dối tôi về gia cảnh? Cũng có thể lắm vì họ không muốn ai nhìn mình bằng con mắt thương hại, lúc nào họ cũng muốn xuất hiện một cách đầy vị thế. Nhưng thế nào đi nữa thì hình ảnh ông bà cũng làm tôi nao lòng.
Giờ này nếu ở bản tôi thì khác. Tất nhiên tôi vẫn mê những đêm tháng mười lộng lẫy. Khi màn đêm buông xuống, cả cánh đồng căng ra như thân thể của sơn nữ - được nghỉ ngơi sau một mùa sinh sôi. Người trong làng lại rủ nhau ra đồng làm cây rơm. Đây là công việc quen thuộc, người ta chất rơm thành từng đống rất cao tích trữ cho gia súc vào mùa đông giá rét.
Hình ảnh người làng tôi vừa râm ran trò chuyện vừa đánh rơm từng đống đã ăn sâu vào tâm trí tôi. Những cây rơm hiện ra như những gã khổng lồ, nhiều gã khổng lồ đứng hiên ngang giữa đồng. Bọn trẻ chúng tôi thường tụ họp ở những cây rơm như thế chơi trận giả.
Vào những đêm trăng sáng, tôi như thấy những cây rơm ấy thì thầm với nhau, hình như chúng cũng có linh hồn. Có những lúc tôi lại thấy chúng đi lại, rồi tựa vào nhau âu yếm, hình như chúng cũng biết yêu nhau. Còn những đêm sương mù về trải khắp cánh đồng, tôi lại thấy những gã khổng lồ kia nhảy múa, hình như chúng đang tổ chức vũ hội. Những cây rơm kì lạ ấy còn chứng kiến một mối tình dang dở, đầy tiếc nuối của tôi. Vâng, đó là những giây phút đẹp nhất thời thơ ấu của tôi.
Vào một đêm tháng mười, khi tôi vừa tròn mười ba tuổi, trong bản tôi có đám cưới. Người bản tôi thường tổ chức đám cưới vào tháng mười no đủ. Có đám cưới, cả bản vui - một niềm vui không chỉ riêng của gia chủ mà của tất cả mọi người. Vui nhất có lẽ là đám trẻ chúng tôi. Mười ba tuổi tôi đã lớn và bắt đầu biết yêu, người tôi say đắm là một sơn nữ hơn tôi hai tuổi. Đêm đó cô ấy rất đẹp! Tôi thấy khuôn mặt cô ấy sáng ngời dưới ánh trăng. Tôi và cô ấy được gia chủ phân công ra đầu bản đón chúng bạn (những người bạn ở bản khác đến dự đám cưới).
Đêm đó trăng sáng lắm, khuôn mặt tròn trịa của cô ấy cũng sáng ngời. Chúng tôi đi bên nhau, thỉnh thoảng tay cô ấy chạm vào tay tôi - cái cảm giác đụng chạm ấy làm tôi bối rối, hồi hộp, lúng túng, ngất ngây... Thú thực, tôi rất muốn nắm chặt bàn tay cô ấy và ấp vào ngực mình để cô ấy nghe tiếng thổn thức yêu thương của một đứa trẻ đang lớn.
Chúng tôi dừng lại dưới chân một cây rơm. Phải, đó là cây rơm mới dựng còn thơm mùi lúa chín. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ như in cái hình ảnh đó. Cô ấy nói: “Thôi chị em mình dừng ở đây đợi chúng bạn…”. Dưới ánh trăng trong vắt, bóng cây rơm như điểm tựa cho chúng tôi. Cô ấy bứt từng cọng rơm, mắt nhìn ra xa như muốn nói gì đó. Đôi mắt ấy cũng trong vắt như thu hết ánh trăng vào đó. Tôi không dám nhìn lâu, cũng không dám đứng gần cô ấy, trông tôi chắc tội nghiệp lắm.
Xa xa tiếng cười nói, tiếng chúc tụng, tiếng lày cỏ từ đám cưới vọng lại. Tôi vẫn đứng ngây như người mất hồn. Bỗng cô ấy hỏi: “… Sao em hay dậy sớm gánh nước thế?”. Tôi đỏ bừng mặt ấp úng không dám trả lời. Cho đến bây giờ tôi vẫn không biết cô ấy hỏi tôi để làm gì, hay đó là cách vào chuyện của một cô gái đang yêu, có phải cô ta cũng biết tôi say mê cô ấy? Tôi rất muốn thì thầm vào tai cô rằng, tôi yêu em! Tôi yêu người con gái hiện ra mỗi buổi bình minh huyền diệu kia. Tôi yêu cái dáng đi nhịp nhàng trong sương sớm của em! Tôi yêu khuôn mặt tròn trịa như ánh trăng đêm nay! Tôi yêu vẻ hồn nhiên đằm thắm của em! Tôi yêu… ngàn lần yêu… Nhưng tôi đã không nói được điều đó, chỉ đứng im lặng như cây rơm dù trong tôi đang cuộn cháy dữ dội.
Rồi chúng tôi đón các bạn đến mừng đám cưới. Cô ấy đưa bạn đi về, còn mình tôi đã lang thang ngoài đồng như kẻ mộng du cho đến thật khuya. Tôi đã cười. Tôi đã khóc. Tôi đã tự huyễn hoặc chính mình chăng? Mười ba tuổi, cái tuổi đầy mâu thuẫn và phức tạp.
Đêm đó, cánh đồng đầy sương. Những cây rơm vươn cổ nhìn tôi mỉm cười chế diễu. Chúng nói với tôi rằng, hỡi kẻ si tình kia - sao mi không nói nổi lời nào? Mi là kẻ hèn nhát, mi chỉ là một đứa trẻ, người con gái kia không bao giờ thuộc về ngươi. Tôi muốn hét vào mặt chúng rằng tôi không phải là đứa trẻ, tôi là một trai bản đang yêu. Nếu bây giờ có cỗ máy thời gian, tôi sẽ quay về đêm tháng mười đó, đến bên cây rơm đó và tự tin nhìn vào mắt cô ấy nói rằng: “Vì tôi yêu em!”. Nhưng thời gian còn đâu, đó chỉ là những hoài niệm của kẻ gàn dở như tôi mà thôi.
Bây giờ sống ở thành phố, tìm kiếm một đêm trăng thật khó. Thứ ánh sáng huyền diệu của thiên nhiên ấy không lọt nổi vào thành phố. Những cột đèn cao áp vô duyên, những cây xà cừ xấu xí đã nuốt hết ánh trăng của tôi. Đêm nào cũng thế, mỗi khi tàn cuộc cà phê, tôi lại về nhà ngồi làm việc thật khuya.
Tôi phải làm việc về khuya để giải toả những lo toan của ngày mai. Tôi phải hoàn thành bài viết, tôi phải hoàn thành bức vẽ, tôi phải hoàn thành tập bản thảo đang đọc dở… đó là những công việc tôi phải làm vào đêm khuya. Những lúc quá mệt mỏi, tôi thèm khát một ánh trăng, chỉ một tia sáng nhỏ nhoi mát dịu thôi! Không bao giờ tôi thấy! Vẫn là tiếng ồn ào của mấy kẻ bán hàng đêm, vẫn là tiếng rú còi của lũ xe cộ, rồi ánh sáng vàng vọt nhức mắt của cột đèn cao áp, hay là cái bóng ma quái của những cây xà cừ xấu xí… Tôi mệt mỏi rũ xuống.
Tôi ghét những đêm như thế, nhưng tôi phải thức, phải viết, phải vẽ, phải đọc, phải làm việc. Thế đấy, buổi tối ở đây thật căng thẳng. Những gì dự định của ngày mai, tôi phải hoàn thành trong đêm nay. Tôi không có quyền lựa chọn!
Có một đêm - một đêm cũng rất đẹp nhưng buồn ở thành phố này. Đó là những năm sinh viên. Tôi có một người bạn gái, cô ấy rất quý mến tôi. Có thể trong mắt cô ta, tôi hiện lên như kẻ ngờ nghệch đáng thương. Tôi đã kể rất nhiều về bản tôi, về những đêm tháng mười lộng lẫy. Câu chuyện của tôi bao giờ cũng cuốn hút cô ấy. Có thể vì thế cô ấy chú ý đến tôi – chú ý đến những câu chuyện là lạ, ngồ ngộ của một gã trai bản như tôi. Nhưng cô ấy không bao giờ biết được, những câu chuyện đó là tài sản duy nhất mà tôi mang về phố. Tôi không có bất cứ câu chuyện gì để kể, ngoài bản làng của tôi.
Rồi một hôm cô ta đưa cho tôi một cái thiệp mời đến dự sinh nhật. Tôi chưa bao giờ dự một sinh nhật của người thành phố. Tôi hồi hộp, lo lắng và suy nghĩ rất lâu về chuyện này. Tôi không muốn đi vì tôi sợ xuất hiện với vẻ ngờ nghệch, nhưng lại tò mò muốn chứng kiến người thành phố tổ chức sinh nhật như thế nào nên tôi quyết định đi.
Tôi đã đứng ở cổng nhà cô ấy rất lâu - lâu lắm. Tôi không nhớ đã định ấn chuông bao nhiêu lần. Cuối cùng tôi cũng đủ dũng khí bước vào nhà cô ấy. Một cảnh tượng choáng ngợp: rượu vang và âm nhạc. Vâng, họ ăn mặc sang trọng, họ uống rượu vang, họ thắp nến, họ chơi dương cầm, họ nhảy với nhau... Đó là sinh nhật của giới trung lưu thành phố, gia đình bạn tôi làm nghệ thuật, vì thế họ sang trọng và lịch lãm.
Tôi đã đứng ở đó ngờ nghệch và tội nghiệp. Cô bạn tôi đã mời tôi nhảy, nhưng tôi không biết nhảy nên từ chối. Những người bạn của cô ấy nhìn tôi đầy thương hại. Và tôi nghe loáng thoáng ai đó nói rằng: lại cái cậu bạn “tông dật” của cậu à… Thực lòng tôi không biết kể thế nào, nhưng cái từ “tông dật” là cách nói ngược từ dân tộc, có thể họ đùa cho vui, chẳng có ý miệt thị tôi. Nhưng lúc đó tôi đã tự ái - sự phản kháng ngờ nghệch của một kẻ tự ti.
Tôi ra về vì sự tự ti và hờn dỗi như đứa trẻ. Cũng từ đêm đó tôi thường tránh mặt cô ấy. Không hiểu sao tôi lại hành động như vậy, cũng từ đó tôi không bao giờ kể về bản làng của mình cho cô ấy nghe nữa.
Đêm đó tôi đã đạp xe lang thang trong phố, tôi lại nhớ về đêm tháng mười bản tôi, nhớ về những cây rơm ẩn hiện trong sương khói, nhớ về người con gái tôi yêu. Và tôi biết chắc rằng tôi không thể yêu một người con gái thành phố. Đến bây giờ mỗi lần nghĩ đến chuyện này tôi lại chạnh lòng - một nỗi buồn rất mơ hồ xâm chiếm tôi. Đêm đó cũng là một đêm hiếm hoi tôi nhìn thấy ánh trăng ở thành phố: vàng vọt, yếu ớt, ủy mị như những điệu valse mà cô ấy mời tôi nhảy. Tôi không hề xúc động trước ánh trăng yếu ớt đó.
Hình như ở thành phố không có khái niệm đêm khuya, với tôi chỉ có khái niệm buổi tối. Mọi thứ vẫn diễn ra bình thường, vẫn hối hả mưu toan như ban ngày, thậm chí còn vồn vã hơn. Người ta có những phố sôi động về đêm. Họ ăn uống, chơi bời, mua bán… rồi những cô gái ẽo ợt, những gã thanh niên đồng bóng, những công chức trốn vợ đi chơi, những gã đầu gấu ăn đêm… Trông họ thật tội nghiệp trong sự chạy đua với thời gian. Họ chưa bao giờ được hưởng một ánh trăng theo đúng nghĩa. Đêm tối với họ là công việc, là chơi bời. Ánh sáng với họ là cột đèn cao áp vàng vọt kia, tâm hồn họ rất hiếm hoi được một ánh trăng soi rọi. Tôi thấy họ kiệt khô, máy móc... Và khi buổi sáng xuất hiện với những khúc nhạc ráo riết, họ lại ra về rồi ngủ vùi trong mệt mỏi của một đêm không có trăng.
Tôi cũng thế, mỗi khi đi ngủ cũng mệt mỏi với màn hình vi tính, với những trang bản thảo, với những bức vẽ chưa hoàn thành. Tôi ngủ trong sự lo lắng của công việc và bao giờ cũng thức dậy trong hoảng hốt vì sợ muộn giờ. Từ ngày chuyển về thành phố, tôi chưa được hưởng một đêm khuya khoắt tràn ngập ánh trăng, nên tôi thèm khát - thèm khát ánh trăng của cố hương.
Thỉnh thoảng về quê, tôi vẫn thức rất khuya không phải vì công việc, tôi chỉ muốn lắng tai nghe sự im lặng đến tuyệt đỉnh của đất trời. Mỗi lần như thế tôi lại khóc thầm. Sẽ không còn cơ hội một mình lang thang trên cánh đồng đầy sương, với những cây rơm khổng lồ, với mùi thơm ngái của lúa chín, với người sơn nữ yêu dấu ngày nào. Đó chỉ là hình ảnh mê li của hoài niệm, nó luôn ám ảnh kẻ gàn dở như tôi.
Phải, tôi là một kẻ gàn dở, cũng có người nói với tôi: chán thành phố thế, sao ông không về với bản làng của ông đi… sống ở đây làm gì? Quả thực đôi khi tôi cũng không biết mình sống ở đây làm gì và tại sao mình lại sống ở thành phố? Tôi tin sẽ rất nhiều người đang sống ở thành phố mà trong ký ức của họ có một cố hương cũng sẽ nghĩ như tôi. Chỉ có thể lý giải rằng, tôi cũng như tất cả mọi người – đều mang trong mình những tham vọng. Chính những tham vọng đáng ghét kia đã khiến tôi rời bỏ bản làng để về với thành phố ồn ã. Và thành phố này trở nên ồn ã, lộn xộn, mưu toan, chụp giật, lừa lọc… cũng chỉ vì hai từ: THAM VỌNG mà thôi!
Tôi còn nhớ, hồi 5 tuổi lần đầu tiên được xem Bộ đội hát (cách gọi của người bản tôi) của đoàn nghệ thuật quân đội lên phục vụ đồng bào. Cả cái bản Pác Thay bé nhỏ của tôi náo nức như ngày hội. Đêm đó lần đầu tiên tôi nhìn thấy đèn điện, thấy loa đài, thấy ánh sáng choáng ngợp của sân khấu… Rồi những diễn viên múa trong trang phục lộng lẫy, họ hát, múa trong ánh sáng lung linh của đèn điện, trong tiếng nhạc thật lạ tai. Tôi đã nghĩ rằng, họ là Tiên chứ không phải là người, nhất định là Tiên mới có khuôn mặt ấy, làn da ấy, trang phục ấy…
Và khi họ ra về, bọn trẻ chúng tôi cứ thế chạy theo xe của họ thật xa. Cũng từ đêm xem văn công đó, một miền đất thật đẹp với ánh điện lung linh đã ăn sâu vào tâm trí tôi. Trong tư duy của một đứa trẻ của núi rừng, họ thật kỳ lạ, thật cuốn hút và họ là thánh thần… Họ đã ám ảnh tôi, cũng có thể từ đó những tham vọng ngờ nghệch bắt đầu nhen nhóm trong vỏ não của tôi.
Lớn lên một chút, tôi được đi học ở trường nội trú. Một lần có đoàn làm phim đến trường tôi lấy tư liệu. Họ chọn tôi để phỏng vấn, trước đó thầy giáo đã soạn cho tôi một bản trả lời viết sẵn. Tôi nhớ như in lời thầy dặn: họ sẽ hỏi ước mơ của em là gì? Rồi thầy chìa tờ giấy cho tôi, trong đó ghi rất rõ nội dung: ước mơ của em là học thật giỏi để đem kiến thức về phục vụ quê hương… Và tôi đã nói như những gì thầy dặn. Đến bây giờ mỗi khi nghĩ lại chuyện này tôi thấy đỏ mặt vì xấu hổ. Thú thực, khi ấy tôi không biết ước mơ là cái gì, tôi cũng không thể biết như thế nào là học để có kiến thức, để phục vụ quê hương. Một đứa trẻ như tôi hồi đó không thể biết nói thế, tất cả là do những lời người lớn nhồi vào miệng.
Còn việc tôi nhận lời đi học ở trường nội trú cũng chỉ vì người ta bảo, đến đó sẽ có quần áo mới, được ăn cơm tập thể, được ngủ giường tầng, được nhìn thấy đèn điện… và đặc biệt không phải đi chăn trâu nữa. Thế là tôi hào hứng đi học với sự tò mò của một đứa trẻ.
Và bây giờ sau rất nhiều năm lăn lộn với thành phố, tôi cũng không thể hiểu ước mơ là gì, tôi chỉ lờ mờ nhận ra tham vọng vị kỷ của chính bản thân mình mà thôi. Cũng có thể vì thế mà tôi đã không quay về bản làng. Và tôi tự hỏi: sống ở thành phố, tôi đã được gì? Tôi có được một công việc khá ổn định, một căn nhà không quá 20m2, một khoản thu nhập luôn ở mức thiếu thốn… Tất cả những thứ đó tôi phải đánh đổi cái ánh trăng huyền diệu nơi cố hương.
Có thể sau này tôi sẽ kiếm ra nhiều tiền - rất nhiều tiền, nhưng tôi cũng biết những đồng tiền kia không thể mua nổi một ánh trăng mát dịu. Ánh trăng đó không thể mua bằng tiền! Phải mất rất nhiều thời gian tôi mới nhận ra sự thật cay đắng đó. Hy vọng ánh trăng ấy sẽ hiếm hoi hiện về trong những giấc mơ của tôi.
Cũng có rất nhiều đêm tôi lang thang trên phố, cố gắng ngước nhìn ánh trăng vàng vọt nơi phố phường này. Nhưng chưa bao giờ tôi thấy nó đẹp, có thể chỉ duy nhất mình tôi thấy trăng ở đây không đẹp. Cũng có thể hệ thần kinh của tôi đã kiệt khô, hay đúng hơn tâm hồn của tôi đã héo mòn, không còn chỗ cho sự thổn thức bẩm sinh của một gã trai bản. Tôi đã là một ông già dù chỉ ngoài ba mươi tuổi. Phải, tôi đã già đi rất nhanh – nhanh hơn chu kỳ bán rã bình thường của một cơ thể sống. Sự thổn thức trong sáng ngày nào mà rừng núi ban tặng cho tôi không còn nữa.
Tôi sống và hành động cơ học như một cỗ máy, vì thế tôi đâu còn biết ngắm trăng!
Thú thực, khi ấy tôi không biết ước mơ là cái gì, tôi cũng không thể biết như thế nào là học để có kiến thức, để phục vụ quê hương. Một đứa trẻ như tôi hồi đó không thể biết nói thế, tất cả là do những lời người lớn nhồi vào miệng.Còn việc tôi nhận lời đi học ở trường nội trú cũng chỉ vì người ta bảo, đến đó sẽ có quần áo mới, được ăn cơm tập thể, được ngủ giường tầng, được nhìn thấy đèn điện… và đặc biệt không phải đi chăn trâu nữa. Thế là tôi hào hứng đi học với sự tò mò của một đứa trẻ.
Trả lờiXóathật hay!
Trả lờiXóaMình cũng đọc đi đọc lại nhiều lần và nghĩ mãi về cảm xúc của bạn ấy! - Thật đặc biệt phải không?!
Trả lờiXóa